Hiện nay, nhiều DN
khi ký hợp đồng với các đơn vị như chi nhánh, trung tâm, xí nghiệp, trạm trại…,
thấy họ có con dấu, tài khoản, hóa đơn chứng từ riêng là yên tâm, mà không biết
rằng, thẩm quyền ký kết phải là người đại diện theo pháp luật và phải là con dấu
của pháp nhân. Ngoài ra, còn phải xem ai là đại diện theo pháp luật, vì nhiều
DN đăng ký người đại diện theo pháp luật không phải là tổng giám đốc, mà là chủ
tịch HĐQT, chủ tịch HĐTV.
Nhiều doanh nghiệp đã
tìm cách thoái thác trách nhiệm trì hoãn thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết và
khi tranh chấp xảy ra, các bên bèn “săm soi” xem có chỗ nào, điều khoản nào
trong hợp đồng có sơ hở để đề nghị Tòa án, Trung tâm trọng tài kinh tế tuyên hợp
đồng vô hiệu. Nguyên nhân chủ yếu là do Thẩm quyền ký kết hợp đồng không đúng.
Như "Vụ tranh chấp hợp đồng
bảo hiểm xây dựng và lắp đặt Công trình Thủy điện Mường Hum giữa CTCP Bảo hiểm
Viễn Đông (VASS) và CTCP Phát triển năng lượng Sơn Vũ (Công ty Sơn Vũ) là một
ví dụ. Theo quy định, mọi công trình xây dựng phải mua bảo hiểm, nhưng khi công
trình xây dựng và lắp đặt xong, phía thi công đã không thanh toán nốt phần phí
bảo hiểm còn lại. Đến khi bị kiện đòi phí thì Công ty Sơn Vũ phản tố, đề nghị
Tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu do người ký kết của VASS không có thẩm quyền, mặc
dù người có thẩm quyền ký kết của VASS không phản đối và nhận mọi trách nhiệm,
nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng."
Một trường hợp khác là
vụ tranh chấp hợp đồng mua bán cổ phần và chuyển giao tài sản giữa CTCP Tập
đoàn Y dược Bảo Long và CTCP Bảo Sơn. Sau khi phát sinh tranh chấp, phía Bảo
Long đã chỉ ra nhiều yếu tố dẫn đến hợp đồng vô hiệu như người ký kết không
đúng thẩm quyền, tài sản chuyển giao vi phạm điều cấm của pháp luật, quyền sở hữu
trí tuệ chưa được định giá nên không thể chuyển giao…
Nguyên tắc chung khi hợp
đồng vô hiệu là “các bên khôi phục lại
tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được
bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường”
(Điều 137, Bộ luật Dân sự), nhưng thực tế các vụ tranh chấp cho thấy, khi hợp
đồng bị tuyên vô hiệu, việc hoàn trả nhau những gì đã nhận không dễ dàng, nhất
là đối với các thương mua bán, sáp nhập.
Đặc biệt, Nếu người ký kết hợp đồng không phải
là đại diện theo pháp luật, thì cần phải có ủy quyền. Phạm vi, thời hạn, nội
dung ủy quyền là yếu tố quan trọng, bởi rất có thể người được ủy quyền ký kết hợp
đồng không được ủy quyền để ký các phụ lục, bổ sung sửa đổi hợp đồng cũng như
thanh lý.
Nhiều trường hợp các bên giao dịch nhầm lẫn về “ủy quyền không hủy
ngang”. Pháp luật cho phép người ủy quyền có quyền rút lại ủy quyền bất cứ lúc
nào, chỉ cần báo trước với người được ủy quyền một thời hạn nhất định, do đó
không thể có ủy quyền không hủy ngang. Đối với việc ủy quyền lại, Điều 583, Bộ
luật Dân sự cho phép ủy quyền lại nếu như người được ủy quyền ban đầu chấp nhận
và phạm vi, nội dung không vượt quá ủy quyền ban đầu. Nhưng như thế không có
nghĩa là được ủy quyền nhiều lần, mà chỉ được ủy quyền một lần.
LÀM THẾ NÀO ĐỂ ỦY QUYỀN ĐÚNG?
Bình luận Facebook